Hiệu quả sản phẩm của Haifa dùng cho Chuối (Phần II)
- Bằng chứng là hiệu quả sản phẩm của Haifa dùng cho Chuối
Trong nhiều năm, bất cứ nơi nào trồng chuối, người nông dân đều có kinh nghiệm bón phân bằng sản phẩm Haifa. Các phương pháp áp dụng khác nhau giữa các quốc gia trong khi lợi thế của việc sử dụng phân bón Haifa luôn có lợi. Một số kết quả thí nghiệm và khảo nghiệm đồng ruộng được thể hiện trong các bảng sau.
- Ứng dụng đất
Bảng 15: Ảnh hưởng của Multi-K® bón trong đất đến năng suất Chuối (Lahav, 1973)
Hình 41 ab: Ảnh hưởng của các loại phân kali khác nhau đến năng suất chuối (Guerrero và Gadban, 1996)
- Ứng dụng trên lá
Hình 42: Hiệu quả của việc bón phân qua lá Multi-K® đối với cây chuối (Gran Enno)
(Guerrero & Gadban, 1992)
Bảng 16: Ảnh hư ởng của Multi-K® phun qua lá đến năng suất chuối
(Guerrero & Gadban, 1992)
- Bón vào đất: 400 kg N + 600 kg K2O ha/năm
Bảng 17: Ảnh hư ởng của Multi-K® phun qua lá đến hàm lư ợng dinh dư ỡng trong lá chuối
(Guerrero & Gadban, 1992)
Hình 43: Ảnh hư ởng của việc phun qua lá Multi-K® đến hàm lượng K trong lá
(Ap dụng 2 kg Multi-K® trong 20 L dung dịch (10%) mỗi ha, khoảng cách 2 tuần giữa các lần bón)
K conc. trong lá (% in DM)
Những người trồng trọt áp dụng thành công hệ thống tưới tiêu đã sử dụng Multi-K® kali nitrat kết hợp với các loại phân bón hòa tan trong nước khác:
- Santa Maria, Colombia – điều kiện nhiệt đới.
Mật độ trồng: 1200-1800 thảm/ha Năng suất dự kiến: 45-60 tấn/ha
Bảng 18: Khuyến nghị bón phân cho cây chuối ở Colombia
- Ngoài 2 tấn/ha/năm phân chuồng. (Nguồn: Guerrero và Gadban, 1993)
- Quần đảo Canary – điều kiện cận nhiệt đới. Mật độ trồng: 2000mat/ha
Năng suất dự kiến: 45-60 tấn/ha
Bảng 19: Khuyến nghị bón phân cho cây chuối ở quần đảo Canary
*Ngoài ra, vào mùa xuân, mỗi tuần một lần: 15 kg/ha
– Canxi nitrat + 8 Lít/ha Axit Nitric (60% w/w).
**AS = Amoni sunfat, 20-0-0
- Nam Phi – điều kiện cận nhiệt đới.
Bảng 20: Khuyến nghị bón phân cho cây chuối ở Nam Phi
Nhu cầu dinh dư ỡng (kg/ ha)
- Khuyến nghị bón phân
Cây chuối cần đất màu mỡ và độ ẩm đất dồi dào để sinh trưởng và cho năng suất tốt nhất.
Tốc độ phát triển của cây trong 3-4 tháng đầu quyết định trọng lượng của buồng và số lượng tay. Do đó, điều cần thiết là cung cấp sự chăm sóc tốt nhất trong giai đoạn này.
Vị trí – Phân kali, phốt pho và nitơ hòa tan có thể dễ dàng được đưa vào rễ sau khi trồng. Ứng dụng có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Ứng dụng đất được phát tán hoặc cục bộ. Vì rễ chuối nhanh chóng phân nhánh ra khỏi thân giả nên phân bón nên rải rác hơn là tập trung xung quanh thân giả.
- Nutrigation™ (Bón phân bón qua tưới tiêu) là hiệu quả nhất vì chất dinh dưỡng được bón trực tiếp vào vùng rễ
Thời vụ – Thời vụ bón phân phải phù hợp với điều kiện khí hậu và các giai đoạn hiện tượng của cây trồng.
Tần suất – Các lần bón thường xuyên đặc biệt quan trọng ở những nơi đất nhẹ và thiếu màu mỡ và khi lượng mưa lớn. Do khả năng di chuyển hạn chế của nó trong đất nên phân bón P nên được bón một hoặc hai lần mỗi năm ở vùng cận nhiệt đới. Phân N, K thường được bón cách quãng ngắn qua hệ thống tưới.
Ở vùng nhiệt đới ẩm, sự rửa trôi mạnh mẽ do mưa rào lớn đòi hỏi phải bón phân ngay lập tức thông qua việc bón phân vào đất để bù đắp cho những tổn thất do rửa trôi.
Tần suất sử dụng có thể giảm đáng kể khi sử dụng Multicote®, phân bón giải phóng có kiểm soát.
Bằng cách sử dụng Multicote®, chất dinh dưỡng thực vật sẽ ít bị rửa trôi hơn, nếu có, và cần ít hơn.
4.1 Hấp thu/loại bỏ chất dinh dưỡng
Sự hấp thu các chất dinh dưỡng đa lượng theo thứ tự khối lượng sau: Kali (K) > Nitơ (N) > Canxi (Ca) > Magiê (Mg) > Phốt pho (P), xem bảng 21.
Sự hấp thu các vi chất dinh dưỡng theo thứ tự khối lượng sau: Mangan (Mn) > Sắt (Fe) > Bo (B) > Kẽm (Zn) > Đồng (Cu).
N, P, K, Mg và Cu có tốc độ tái dịch chuyển cao so với các chất dinh dưỡng khác.
Bảng 21: Cây chuối loại bỏ chất dinh dư ỡng (cv. Cavendish)*
Dinh dưỡng | Loại bỏ trong trái cây (kg/ha) | Loại bỏ trong thân giả (kg/ha) | Tổng cộng (kg/ha) | Tỷ lệ loại bỏ trong hoa quả (%) |
N | 189 | 199 | 388 | 49 |
P | 29 | 23 | 52 | 56 |
K | 778 | 660 | 1438 | 54 |
Ca | 101 | 126 | 227 | 45 |
Mg | 49 | 76 | 125 | 39 |
- 50 tấn/ha trái cây tươ i @ 2000 cây/ha
Tỷ lệ N:K*
Tỷ lệ N:K tới hạn của lá cho năng suất tối ưu thay đổi trong khoảng từ 1:1 đến 1:1,6, tùy thuộc vào phương pháp phân tích lá.
Tỷ lệ N:K thấp dẫn đến
- “Finger Drop” (Dégrain) – vấn đề sau thu hoạch của những chùm chuối chín, gọi là Finger Drop xảy ra trong mùa nóng ẩm ở vùng nhiệt đới, nếu nguồn cung K thấp, do đó NH4+tích lũy.
- Ra chùm chậm
- Quả xòe rộng trên tay, dễ bị dập nát trong quá trình vận chuyển
- Cuống quả dễ vỡ, khi chín quả rụng khỏi chùm
- Giảm sức cản của gió
Dinh dưỡng chuối (Lahav & Turner), IPI-Bulletin số 7 (1985), Irizarry et al. (1988), Garcia và cộng sự. (1980), Oschatz (1962)
Trên đất có hàm lượng Natri cao, Na+ cũng phải được xem xét để cân bằng cation tối ưu
ví dụ như các vấn đề với tỷ lệ Na:(K+Mg+Ca) cao như ở Quần đảo Canary (Dinh dư ỡng chuối : Lahav & Turner) IPI-Bản tin số 7 (1985); Banano (ed.: Rosero Ruano); Godefroy-Lachenoud, 1978).
Một lần nữa, Multi-K®, hòa tan trong nước hoặc Multicote®, một loại kali nitrat CRF có lớp phủ, không chỉ là nguồn cung cấp K+ lý tưởng, mà còn do tác dụng đối kháng của cation (K+ ), có thể làm giảm hoặc ngăn chặn sự hấp thu natri.
4.2 Phân tích đất và lá
4.2.1 Thử nghiệm đất
Nên thực hiện các thử nghiệm đất để thiết lập một chương trình phân bón hiệu quả, kinh tế. Việc kiểm tra N trong đất thường được coi là một chỉ số không đáng tin cậy về tình trạng N của đất trồng chuối, vì khó có được mối quan hệ chặt chẽ giữa thử nghiệm N của đất và phản ứng của chuối đối với N được bón. Chuối phát triển tốt nhất ở đất có độ pH từ 5,0 (canxi clorua) trở lên. Bảng dưới đây cung cấp hướng dẫn về mức độ ưu tiên cho chuối từ một cuộc thử nghiệm đất điển hình.
Bảng 22: Hướng dẫn về mức độ ưu tiên cho chuối từ một thử nghiệm đất điển hình
Do đó, thông tin kiểm tra đất thường được kết hợp với kiến thức địa phương khi có sự khác biệt giữa các khu vực (Bảng 24) để xây dựng chương trình bón phân tối ưu.
Bảng 23: Phân tích đất – các giá trị tới hạn (Godefroy và Dormoy (1988); Turner và cộng sự (1989); Rosero Ronano (2000).
4.2.2 Phân tích lá
Trong nhiều năm, mẫu lá được lấy từ cuống lá thứ 7 và từ lá thứ 3 . Trong những năm này hầu như không có thay đổi nào về tiêu chuẩn dinh dưỡng của lá mỏng, trong khi qua nhiều năm, mức độ N, P và K trong cuống lá tăng lên đã được thông qua (Hình 44).
Hình 44: Sự thay đổi hàm lượng N, P, K ở cuống lá thứ 7 qua các năm
Ngoài ra, khối lượng sinh dưỡng của cây chuối đã tăng lên, chủ yếu là do giống tốt hơn, lịch trình và tỷ lệ bón phân tăng cường. Do đó, hàm lượng chất dinh dưỡng trong thực vật cũng tăng lên (Bảng 24).
Bảng 24: Khối lượng cây chuối tăng từ những năm 1960 đến 1990 (Lahav và Lowengart, 1998).
Lá thứ ba tính từ đỉnh giả của cây mới ra hoa (chồi) thư ờng đư ợc lấy mẫu để phân tích.
Bảng 25: Mức dinh dưỡng tới hạn được khuyến nghị sử dụng lá thứ ba làm lá mẫu
Các mẫu được lấy từ các bộ phận của lá ở các vị trí khác nhau trên cây (Hình 45).
Khi nào nên lấy mẫu: Các mẫu nên được lấy ngay trước khi ra hoa hoặc sau khi hoa xuất hiện và khi có thể nhìn thấy tất cả các bàn tay cái.
Lấy mẫu mô nào: Ở hầu hết các quốc gia sản xuất chuối, cấu trúc tầng của lá 3 được lấy mẫu để phân tích mô (phương pháp IRS, 1975). Tuy nhiên, các mẫu của gân trung tâm của lá 3 và cuống lá của lá 7 cũng được sử dụng. Cấu trúc phiến lá của lá 3 được lấy mẫu bằng cách loại bỏ một dải mô rộng 10 cm, ở cả hai mặt của gân trung tâm và loại bỏ mọi thứ trừ mô kéo dài từ gân trung tâm đến tâm của phiến lá.
Hình 45: Lấy mẫu các bộ phận của lá chuối
4.2.3 Giải thích tình trạng dinh dưỡng (lamina 3)
Bảng 26: Tiêu chuẩn hàm lượng N, P, K trong lá chuối
dinh dư ỡng | Bình thư ờng | Thiếu |
N | 3 – 4% | 2% |
P | 0,15% – 0,25% | < 0,15% |
K | 3 – 4% | 2% |
Bảng 27: Hàm lượng các chất dinh dưỡng đa lượng trong lá chuối (% chất khô)
Bảng 28: Hàm lượng vi lượng trong lá chuối (ppm trong chất khô)
Bảng 29: Giải thích tình trạng dinh dưỡng vĩ mô và thứ cấp của cây trồng (lamina 3)*
Hàm lượng dinh dưỡng (% DM)
* Hướng dẫn sử dụng IFA – đánh giá tài liệu trung bình
Bảng 30: Giải thích tình trạng dinh dưỡng vi mô của cây trồng (Martin-Prevel (1999 – IFA-manual)
*Cũng có thể xem xét tỷ lệ P/Zn (cao = thiếu Zn)
Bảng 31: Diễn giải tình trạng vi dinh dưỡng của cây – Giai đoạn sinh trưởng: Măng trưởng lớn/mọc hoàn toàn.
(Martin-Prevel (1999 – hư ớng dẫn sử dụng IFA)
4.3 Nhu cầu dinh dưỡng
Quản lý chất dinh dưỡng theo sự hấp thu và loại bỏ chất dinh dưỡng – khuyến nghị chung*:
Sự hút dinh dưỡng của cả thảm là cơ sở để bón phân, chỉ khi bón phân cho vụ đầu tiên
Đối với cây trồng sớm, tàn dư cây trồng của vụ trước, như lá tạp và thân giả
cắt cung cấp thêm chất dinh dưỡng – cần ít phân bón hơn
Mất dinh dưỡng do phân bón và rác thải phải được xem xét để tính toán phân bón giá cho cây trồng và cây trồng khẩu phần
Bón phân chia nhỏ làm giảm thất thoát chất dinh dưỡng.
Đặc biệt tổn thất N và K có thể cao
Irizary et al. (1988); Twyford & Walmsley (1973/74/76); van der Vorm và van Diest (1982)
Việc loại bỏ các chất dinh dưỡng thực vật trong quả chuối thu hoạch là một trong những cân nhắc chính trong việc xây dựng các khuyến nghị về phân bón. Lượng chất dinh dưỡng thực vật có trong toàn bộ cây và trong quả tươi được thu hoạch và lấy ra khỏi ruộng là cơ sở để lập kế hoạch cho chương trình bón phân. Lượng K lớn phản ánh hàm lượng K cao trong quả. Khi vụ trước được để lại trên đồng ruộng, nên xem xét sự đóng góp của các chất dinh dưỡng thực vật được tái chế (Bảng 32).
Bảng 32: Nhu cầu dinh dưỡng của cây thay đổi tùy theo năng suất dự kiến và tốc độ tăng trưởng của cây, có xét đến sự đóng góp của các bộ phận cây được tái chế từ vụ trước (năng suất dự kiến: 30-60 tấn/ha).
Bảng 33: Sự hấp thụ chất dinh dưỡng của chuối Cavendish (trên Mt cả chùm chuối)*
Dinh dưỡng thực vật đa dạng (kg/tấn)
IFA World Fertilizer Manual, 1991
Tóm tắt: Hấp thu chất dinh dưỡng – N,P, K
Nitơ
- nhu cầu N liên tục trong suốt thời kỳ sinh trưởng Phốt pho
- nhu cầu liên tục về lượng P nhỏ trong suốt thời kỳ tăng trưởng
Kali
- nhu cầu K liên tục trong suốt thời kỳ tăng trưởng
- Nên bón 80% K trước khi ra hoa cao điểm
- Tỷ lệ K nhỏ hơn ở giai đoạn đầu, tỷ lệ K tăng ở tháng trước và sau ra hoa
Magie
- nhu cầu liên tục về lượng Mg nhỏ trong suốt thời kỳ sinh trưởng.
Calcium
– Main Ca uptake until shooting/shot
– No net Ca uptake into bunch after shooting
– Main Ca application for fruit production should focus on periods before
shooting
Sulfur
o The most rapid S uptake occurs from sucker to shooting stage.
o After shooting the uptake rate is reduced
- Nitơ
Dạng nitơ (N) hoặc amoni (NH4+) hay nitrat (NO3 – ), đóng vai trò quan trọng khi lựa chọn loại phân bón phù hợp cho Dinh dưỡng™ của cây chuối.
Nitrat-nitơ (NO3 – ) là nguồn nitơ thích hợp hơ n vì nó ức chế sự hấp thu clorua (Cl- ) và đồng thời thúc đẩy sự hấp thu của các cation như : kali (K+ ), magie (Mg+ ) và Canxi ( Ca++). Ngoài ra, dạng nitrat của nitơ làm tăng độ pH của dung dịch đất gần hệ thống rễ, đây là một đặc điểm đặc biệt quan trọng ở đất chua nhiệt đới.
Nitơ trong Multi-K® kali nitrat hoàn toàn ở dạng nitrat (NO3 – ), làm cho nó trở thành một loại phân bón thích hợp để bón phân.
Một giải pháp tốt hơ n là sử dụng Multicote®, Multicote® Agri và CoteN™, phân bón giải phóng có kiểm soát (để biết chi tiết về sản phẩm, xem trang 71), sẽ giải phóng dần dần tất cả các chất dinh dư ỡng cho cây trồng theo nhu cầu của cây trồng, đồng thời ngăn ngừa thất thoát do rửa trôi.
- Tỷ lệ phân bón đề xuất và hàm lượng chất dinh dưỡng thực vật của chúng
Tiêu chuẩn chung áp dụng N, P, K* N
- Ứng dụng Split N
- Định kỳ 1-3 tháng một lần ở vùng có khí hậu tương đối khô
- Ở vùng nhiệt đới ẩm, mưa nhiều, hoặc tưới tiêu; áp dụng 2-4 tuần một lần, trong khi với MulticoTech™ (4M), áp dụng 10 tuần một lần.
P
- Bón P 1 lần/năm rải cho cây trồng theo nếp hoặc bón vào đất trước khi trồng
- Trên đất cố định P; tỷ lệ có thể cao hơn 4 lần so với nhu cầu của nhà máy
- Ở những đồn điền khỏe mạnh, việc bón phân P có thể hai năm một lần
K
- 80% lư ợng K nên được bón vào giai đoạn ra hoa
- Bón K thư ờng xuyên hơn trong điều kiện ngâm chiết
- Tỷ lệ K theo phân tích đất, ví dụ nếu K trao đổi < 0,4 meq/100 g đất
* – Lahav & Turner (1989 – IPI-Bulletin số 7), Martin-Prevel (1999 – IFA manual)
- Phần mềm web Haifa NutriNet™ cho các chương trình Nutrigation™
Các đề xuất bón phân cho Haifa có sẵn trong Trung tâm Kiến thức trực tuyến trên trang web , www.haifa-group.com. Sử dụng phần mềm web NutriNet™, có thể truy cập trực tiếp tại www.haifa-nutrinet.com, để tạo tỷ lệ phân bón khuyến nghị theo năng suất dự kiến trong điều kiện trồng trọt của bạn.
Lịch trình bón phân vào đất và tỷ lệ bón phân có thể thay đổi tùy theo giống cây trồng, điều kiện khí hậu, giai đoạn sinh trưởng và năng suất dự kiến. Bằng cách sử dụng chương trình Haifa NutriNet™ trực tuyến, bạn có thể nhận được các khuyến nghị của Haifa phù hợp nhất với điều kiện trồng trọt của mình bằng cách chọn năng suất dự kiến, phương pháp trồng và các giai đoạn tăng trưởng.
Sau đây là một ví dụ về các khuyến nghị đối với hai mức năng suất dự kiến (30 và 60 T/ha) của chuối, được xác định bởi NutriNet™:
Bảng 34: Lượng phân bón (kg/ha/năm) và các chất dinh dưỡng cây sử dụng, tương ứng với năng suất dự kiến là 30 T/ha.
*Phân bón do Haifa sản xuất. Để biết chi tiết, xem Phụ lục X.
Bảng 35: Lượng phân bón (kg/ha/năm) và lượng phân bón bón cho cây trồng, cho năng suất dự kiến tương ứng là 60 tấn/ha
4.4.3 Phân bón vào đất
Ở những vùng đất có độ phì thấp như đất cát và đất đá vôi, chuối cần được bón phân thường xuyên (tối thiểu 6 đến 8 lần một năm) để đạt năng suất tối đa. Nên bón 35% N, P và K trong quá trình sinh trưởng sinh dưỡng sau khi trồng và trước khi ra hoa, 40% trư ớc khi ra hoa và 25% còn lại sau khi ra hoa. Yêu cầu kali cao và Multi-K® có hàm lượng K2O cao (13-0-46) được khuyến nghị làm nguồn cung cấp K. Tỷ lệ N-P2O5 -K2O đư ợc khuyến nghị là 3-1-6. Một gợi ý để chuẩn bị tỷ lệ phân bón hòa tan trong nước như vậy, được trình bày trong Tab. 36.
Bảng 36: Pha chế 1 tấn phân bón tan trong nước tỷ lệ 3:1:6 N: P2O5: K2O .
Dạng khô của Multi-K® cũng thích hợp để rải trong vườn chuối bằng phương pháp thủ công hoặc bằng máy rải phân bón. Hai dạng Multi-K® cho phép kết hợp hoàn hảo với phương tiện của người trồng, tức là hòa tan, được tạo thành từ các hạt tinh thể và hạt (hạt 2-3 mm). Cả hai dạng đều hòa tan hoàn toàn trong nước, tuy nhiên, dạng hạt có thể thích hợp nhất cho việc rải bằng tay và cơ giới. Prills cũng là dạng được lựa chọn để trộn với các loại phân bón dạng hạt khác.
Hình 46: Kỹ thuật bón thúc phổ biến theo băng tập trung gần cây trồng (Trung – và Nam Mỹ)
Lượng phân bón phụ thuộc vào kích thước và tuổi của thân cây và số lượng thân trên mỗi thảm (Bảng 37). Nên bắt đầu bón phân cho cây non với tỷ lệ N-P2O5-K2O là 3-1-6 (khi sử dụng công thức phân tích cao hơn thì lượng phân bón trên thảm nên giảm theo tỷ lệ), với 2-3% magie, bón 2 lần/lần. tháng và tăng dần đến 2,5 kg đến 3,0 kg vào thời điểm ra hoa đậu quả, 10 đến 18 tháng sau.
Bảng 37: Chương trình bón phân cho cây chuối 1.
1 -Bón phân đạm, lân, kali, nên bón 2 tháng 1 lần suốt cả năm.
2 – Trường hợp phân bón có độ phân tích cao hơn thì nên giảm lượng phân bón tương ứng.
3 – Có thể bón phân vi lượng qua lá 1-2 lần/năm.
4 – Bón sắt, đặc biệt ở đất có nhiều canxi, nên bón 1-2 lần/năm.
Nếu cần mangan (Mn) và kẽm (Zn), ít nhất một lần phun dinh dưỡng có chứa mangan và kẽm được khuyến nghị hàng năm. Đồng nên được thêm vào bình xịt nếu không sử dụng thuốc diệt nấm có chứa đồng. Cây chuối mọc trên đất cát chua có thể được bón 0,25 đến 0,5 kg sắt khô sunfat 1-2 lần vào thời gian ấm hơn trong năm. Cây chuối phát triển ở vùng đất có độ pH cao, có nhiều canxi có thể được bón từ 30 đến 60 g chất sắt chelat (EDDHA) vào thời điểm ấm hơn trong năm.
- Ví dụ về thực hành bón phân trong đất
Sau đây được coi là một thực tế phổ biến ở một số nước trồng chuối:
Xin lưu ý rằng giá trị ứng dụng có thể khác nhau giữa các vị trí, năng suất, phương pháp ứng dụng,v.v. nhưng nhìn chung tỷ lệ ứng dụng kali cao hơn 1,5-2 lần so với nitơ .
a. Cô-lôm-bi-a, Santa Marta một thực tế phổ biến là:
Bảng 38: Thực hành bón phân phổ biến ở Colombia
b. Vùng nhiệt đới
Mật độ trồng: 1200-1800 thảm/ha Năng suất dự kiến: 45-80 T/ha
Bảng 39: Thực hành bón phân ở vùng nhiệt đới
* Ở những vùng không có vấn đề về độ mặn của nước cũng như độ mặn của đất, SOP chỉ có thể được thay thế bằng KCl trong mùa mưa. Nên bón 30% nhu cầu kali hàng năm vào thời điểm bắt đầu ra hoa.
Số lượng hàng năm của các loại phân bón được khuyến nghị nên được chia thành nhiều lần và càng thường xuyên càng tốt. Ở những đồn điền không có công trình thủy lợi, chỉ nên bón phân vào mùa mưa.
c. Vùng đất nhiễm mặn: Ở vùng đất nhiễm mặn, mật độ cây trồng: 1200-1800 tấn/ha, năng suất dự kiến: 45-60 tấn/ha, thực hành bón phân như sau:
Bảng 40: Khuyến cáo bón phân ở vùng nhiễm mặn.
(Nguồn: Suescun và Eduardo 1993.)
* Lượng phân bón khuyến nghị hàng năm được chia thành 6-8 lần bón. Ở những vùng trồng trọt không có công trình thủy lợi, các lần bón được thực hiện trong mùa mưa.
AN = Amoni nitrat, 33,5-0-0
Haifa MAP= Mono amoni photphat, 12-61-0
Multi-K®= Kali nitrat 13-0-46
d. West Bengal
* Áp dụng bón phân trong suốt chu kỳ sinh trưởng. Bón phân vào ngày 3, 6 , 9 tháng sau khi trồng.
đ. Các vùng cận nhiệt đới
Bảng 42: Khuyến nghị về phân bón
* ở những vùng không có vấn đề về độ mặn của nước – cũng như độ mặn của đất, SOP có thể được thay thế bằng KCl chỉ trong mùa mưa.
** Nên bón 30% nhu cầu kali hàng năm vào thời điểm bắt đầu ra hoa.
Bảng 43: Khuyến nghị dinh dưỡng tại các vùng trồng chuối*
* – Martin-Prevel (1999 – hướng dẫn IFA)
4.5 Phân bón giải phóng có kiểm soátCác sản phẩm Multicote®Agri của Haifa chứa các hạt phân bón phủ polymer, từ từ giải phóng chất dinh dưỡng thực vật vào dung dịch đất với tốc độ xác định trước. Độ ẩm trong đất được hấp thụ bởi các hạt phân bón đóng gói – hòa tan các chất dinh dưỡng bên trong và giải phóng chúng vào vùng rễ.
Tại sao nên sử dụng Multicote®Agri?
Multicote®Agri có thể sử dụng trên mọi loại đất. Tốc độ giải phóng đư ợc xác định hoàn toàn bởi nhiệt độ đất, đây cũng là yếu tố chính ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của thực vật. Loại đất, độ ẩm, độ pH và hoạt động của vi sinh vật không ảnh hưởng đến tốc độ giải phóng
Ở các vùng nhiệt đới, nơi mưa lớn có thể làm trôi chất dinh dưỡng thực vật khỏi vùng rễ và nơi cần bón nhiều phân bón để bù đắp lượng phân bị mất, Multicote®Agri sẽ là giải pháp tối ưu. Nó không bị ảnh hưởng bởi độ ẩm của đất hoặc lượng mưa lớn, vì nó giải phóng dần dần chất dinh dưỡng cho cây trồng.
Vì cây chuối đòi hỏi phải bón phân nhiều và liên tục nên cần phải bón nhiều phân. Do đó, Multicote®Agris tiết kiệm đư ợc số lượng bón, nhờ đó tiết kiệm đáng kể nhân công.
Nhiều thí nghiệm và khảo nghiệm thực địa đã chứng minh hiệu quả của sản phẩm này, mang lại hiệu quả cao hơn sản lượng.
Hiệu quả của Multicote®Agri do chất dinh dưỡng liên tục được giải phóng vào dung dịch đất cao hơn nhiều so với các loại phân bón truyền thống. Do đó, tỷ lệ Multicote®Agri có thể được áp dụng thấp hơn; tiết kiệm chi phí phân bón cũng như chi phí vận chuyển hàng hóa.
Bất cứ nơi nào mối quan tâm về môi trường đối với ô nhiễm nước ngầm do phân bón là một vấn đề, Multicote®Agrisẽ là sản phẩm được lựa chọn.
Khái niệm ứng dụng Multicote®Agri:
Ở nhiều quốc gia trồng chuối, Multicote®Agri đã chứng tỏ mang lại năng suất cao nhất với chi phí cạnh tranh so với bón phân thông thường. Có hai khái niệm ứng dụng chính:
- Ở những vùng nhiệt đới có mưa lớn, việc sử dụng Multicote®Agriwill sẽ làm giảm đáng kể sự thất thoát chất dinh dưỡng cho cây trồng so với việc sử dụng phân bón thông thường. Ngoài ra, các ứng dụng ít hơn mỗi năm sẽ được yêu cầu.
- Trong các đồn điền chuối được tưới nước, nơi thực hiện tưới phân, Multicote®Agri có thể được áp dụng trong mùa mưa khi không thực hiện tưới tiêu. Sự kết hợp của cả hai phương pháp ứng dụng này sẽ tiết kiệm nhân công và đảm bảo cung cấp chất dinh dưỡng cho cây liên tục trong thời kỳ mưa.
- Đề xuất ứng dụng
Ở các vùng nhiệt đới và nơ i mư a lớn có thể làm mất đi chất dinh dư ỡng của cây từ vùng rễ của cây chuối, nên sử dụng Multicote®Agri .
Dựa trên các thử nghiệm đồng ruộng và kinh nghiệm của ngư ời trồng trọt, Multicote®Agri 17-7-25+2MgO có thể đư ợc áp dụng 2 tháng một lần với tỷ lệ 260 g/thảm/năm.
Trên các cánh đồng đư ợc tư ới tiêu, nơ i chỉ có một phần của thời kỳ sinh trư ởng (khoảng 4 tháng) là mùa mư a, nên bón hai lần Multicote®Agri với tỷ lệ 145 g/lần/thảm.
Thời gian còn lại khoảng 8 tháng nên bón phân hòa tan trong nư ớc. Có thể bón phân NPK hòa tan trong nư ớc theo tỷ lệ 3:1:4, chẳng hạn như 14-5-18 hoặc 17-6-22. Nên bón 8 lần hàng tháng, lư ợng 150 g/lần/cây chuối.
- Hiệu suất đã được chứng minh của Multicote®Agri
Ở Colombia, với sự hợp tác của Chiquita, Multicote®Agri được so sánh với các phương pháp xử lý thương mại thông thường (đối chứng). Số lư ợng NPK giống nhau ở tất cả các nghiệm thức trong khi bốn sự kết hợp hàm lượng Multicote®Agri trong mỗi nghiệm thức thay đổi từ 100%, đến 75%, 50% và 25%. Sự tăng trưởng của cây được đo lường: chu vi, chiều cao của cây mẹ và cây con, % số chùm mọc mỗi tuần và số tuần trên mỗi cây.
Multicote®Agri hoạt động tốt hơn so với biện pháp kiểm soát áp dụng 50-100% chất dinh dưỡng đã được thực hiện. (Hình 47
Hình 47 : Ảnh hư ởng của Multicote® Agri đối với sự phát triển của chuối (cv. Williams)
b. Chiều cao cây mẹ (cm)
Chiều cao cây con (cm)
Số lá trên cây mẹ
Ở Philippines, một thí nghiệm quy mô lớn đã được thực hiện bởi Mt. Kitanglad Agriventure, Inc. (MKAVI) ở Lantapan, Bukidnon, so sánh Multicote®Agri 12-0-44 với chương trình bón phân thông thường (đối chứng) (Bảng 45). Mục tiêu là xác định hiệu quả của việc cải thiện chế độ dinh dưỡng thâm canh thông thường bằng cách áp dụng phươ ng pháp xử lý N & K dư ới dạng Multicote®Agri :
Multicote® Agri 12-0-44, 800 kg/ha
Phương pháp xử lý Multicote Agri® mang lại năng suất cao hơn và sớm hơn so với lô đối chứng.
Hình 48: Xử lý Multicote Agri® dẫn đến sự xuất hiện sớm hơn của các chùm chuối (cv. Williams)
Phần kết luận:
Multicote®Agri tăng lợi nhuận cho người trồng chuối bằng cách giảm số lần bón phân và tỷ lệ bón phân, đồng thời tạo ra năng suất cao hơn.
- Dinh dư ỡng™ (bón phân)
Như đã giải thích ở phần đầu của tài liệu này, chuối là một loại cây thư ờng xanh thân thảo nhiệt đới không có giai đoạn ngủ đông tự nhiên. Do đó, nó có nhu cầu nư ớc cao trong suốt cả năm, đặc biệt là ở nhiệt độ cao.
Về mặt này, các đặc tính quan trọng của cây chuối là:
- Khả năng thoát hơi nước cao do lá rộng và chỉ số diện tích lá cao
- Hệ thống rễ nông so với hầu hết các loại cây ăn quả
- Khả năng hút nước từ đất dưới khả năng của đồng ruộng kém
- Phản ứng sinh lý nhanh với tình trạng thiếu nước trong đất
Những đặc tính này làm cho cây chuối cực kỳ nhạy cảm với những thay đổi nhỏ về hàm lượng nước trong đất và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lập kế hoạch tưới nước chính xác.
Dinh dưỡng™ (bón phân) là một kỹ thuật kết hợp tưới tiêu và bón phân. Trong nhiều thập kỷ kể từ khi kỹ thuật này được phát triển, nó đã trở thành một phương pháp hiệu quả trong nông nghiệp hiện đại, mang lại năng suất cao hơn và chất lượng cây trồng được cải thiện.
Ưu điểm chính của tất cả các hệ thống tưới vi mô là chúng được trải rộng trên đồng ruộng và có thể tưới cho một khu vực rộng lớn từ một điểm kiểm soát duy nhất. Do đó, yêu cầu về lao động là tối thiểu, tính đồng nhất của việc áp dụng cao, một vùng rễ cụ thể có thể được làm ướt liên tục và có thể áp dụng bất kỳ chế độ tưới mong muốn nào. Ngoài ra, sự mất nước do bay hơi là tối thiểu, đặc biệt khi thực hiện tưới nhỏ giọt. Phân bón hòa tan có thể được áp dụng dễ dàng và hiệu quả thông qua hệ thống trực tiếp đến vùng rễ. Khi việc bón phân được thực hiện thông qua hệ thống nhỏ giọt hoặc vòi phun siêu nhỏ, nó cho phép mở rộng diện tích trồng trọt sang những vùng đất khó khăn với khả năng giữ nước hạn chế. Những trường hợp như vậy có thể là đất cát hoặc đất đá, nơi việc kiểm soát chính xác nước và chất dinh dưỡng ở vùng lân cận hệ thống rễ là rất quan trọng.
Ở Hawaii, việc chuyển sang tưới nhỏ giọt kết hợp với Nutrigation™ trên chuối đã tăng gấp đôi năng suất thu được từ đồn điền tưới phun mưa thông thường được quản lý tốt.
Bảng 44 cung cấp một minh họa về khả năng đáp ứng của chuối với Dinh dưỡng™ với Multi-K® kali nitrat.
Bảng 44: Ảnh hư ởng của các nguồn kali khác nhau đến trọng lư ợng chùm và tổng năng suất chuối được cung cấp 600 kg/ha/năm K2O ở dạng K2SO4 hoặc Multi-K® hoặc kết hợp cả hai (1:1)*.
- – Guerrero và Gadban, 1996 “Laoespensa” Cienaga Magdalena. cô-lôm-bi-a
- Tỷ lệ lợi ích/chi phí thể hiện tỷ lệ giữa lợi ích/thu nhập bổ sung và chi phí bổ sung liên quan đến việc điều trị.
Kết quả của thử nghiệm này cho thấy Multi-K® vư ợt trội rõ rệt so với K2SO4, về mặt nông học và kinh tế.
Vùng nhiệt đới
Mật độ cây: 1200-1800 thảm/ha;
Năng suất dự kiến: 45-60 tấn/ha
Bảng 45: Chương trình Dinh dưỡng™ ở vùng nhiệt đới
- Ở những vùng không có vấn đề về độ mặn của nư ớc cũ ng như độ mặn của đất, SOP chỉ có thể đư ợc thay thế bằng KCI trong mùa mưa. Nên bón 30% nhu cầu kali hàng năm vào thời điểm bắt đầu ra hoa.
Lượng phân bón khuyến nghị hàng năm nên đư ợc chia thành các lần bón hàng tuần. Trong mùa mưa nên bón phân bằng phương pháp tưới ngắn hạn (kỹ thuật) chu kỳ được thiết kế chỉ cho mục đích này.
Vùng cận nhiệt đới
Bảng 46: Chương trình Dinh dưỡng™ tại các vùng cận nhiệt đới
- Ở những vùng không có vấn đề về độ mặn của nư ớc cũ ng như độ mặn của đất, SOP chỉ có thể đư ợc thay thế bằng KCI trong mùa mư a. Nên bón 30% nhu cầu kali hàng năm vào thời điểm bắt đầu ra hoa.
Số lượng phân bón hàng năm nên được chia thành các lần bón hàng tuần.
Cách làm phổ biến là chia toàn bộ lượng phân bón cho số tuần tưới. Các loại phân bón được cung cấp với số lượng hàng tuần.
Ngoài ra, phân bón có thể được bón liên tục với nước tưới, với tốc độ không đổi – lượng phân bón cân đối.
Bảng 47:
- 30% nhu cầu kali hàng năm đư ợc áp dụng vào thời điểm bắt đầu bó
** Toàn bộ lượng nitơ được Multi-K® và Haifa MAP cung cấp trong mùa thu
4.7 Bón lá
Rễ cây dễ dàng hấp thụ hầu hết các chất dinh dư ỡng khoáng. Tuy nhiên, nhiều cơ quan thực vật khác có thể hấp thụ chất dinh dư ỡng ở dạng ion từ dung dịch. Diện tích lá cây rộng lớn khiến chúng trở thành ứng cử viên tự nhiên như một kênh cung cấp thức ăn bổ sung. Thật vậy, phơ ng pháp này hiện đang phổ biến trong việc quản lý thức ăn cho nhiều loại cây trồng. Những ư u điểm độc đáo mà phươ ng pháp này mang lại cho người trồng chuối như sau: Khi cây chuối cần chất dinh dư ỡng cây trồng cố định và bất động trong đất.
Khi phát hiện thấy những thiếu sót ở giai đoạn phát triển cao của cây và cần phải điều chỉnh nhanh chóng.
Khi hoạt động của rễ bị cản trở bởi các áp lực bên ngoài như nhiệt độ đất thấp, thông khí kém, tuyến trùng, động vật gặm nhấm hoặc hư hỏng do máy móc. Khi hiệu quả của việc bón trực tiếp vào đất bị hạn chế do sự phá hoại của cỏ dại. Vì việc bón phân qua lá giúp tránh được sự cạnh tranh của cỏ dại nên phương pháp này đảm bảo tính sẵn sàng cao cho các cơ quan mục tiêu.
Khi rễ không thể cung cấp cho cây những chất dinh dưỡng nhất định với tỷ lệ thích hợp trong các giai đoạn sinh trưởng quan trọng cụ thể. Hội chứng này có thể xảy ra ngay cả ở những vùng đất màu mỡ.
- Thực hành bón phân qua lá
Ở Martinique, Philippines, Colombia và các nơ i khác, việc áp dụng Haifa Bonus với tỷ lệ 70 -100 g/mat (25-30% nhu cầu kali hàng năm) đã trở thành một thông lệ phổ biến tại thời điểm bắt đầu bó hoa. Khả năng sẵn có cao của Haifa Bonus đối với cây trồng khiến nó trở thành loại phân bón tốt nhất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cây về chất dinh dưỡng ở giai đoạn phát triển quan trọng quyết định năng suất của cây trồng.
Ở Colombia, Mexico và các nơi khác, phun thuốc qua lá trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây được phát hiện là có lợi đáng kể trong việc tăng trọng lượng chùm, số lượng nhánh trên mỗi chùm và số lượng ngón tay trên mỗi bàn tay (Tab. 50, 51).
Bảng 48: Hiệu quả của việc bón phân Haifa Bonus trên cây chuối tại 2 địa điểm là Colombia*
** Phun 6 lần cách nhau 30 ngày với nồng độ 2%.
* Bảng 49: Hiệu quả của việc bón phân Haifa Bonus trên cây chuối*
*Guerrero và Gadban, 1993, San Rafael Cienaga Magdalena, Colombia
** Phun 4 lần cách nhau 30 ngày với nồng độ 2%.
*** Tỷ lệ giữa lợi ích bổ sung và chi phí bổ sung liên quan đến điều trị.
Thông lệ của những ngư ời trồng chuối ở Costa-Rica là thực hiện 44 lần phun thuốc qua lá mỗi năm để kiểm soát bệnh Black Sigatoka . Các nhà nghiên cứu từ CORBANA (Corporacion Bananera Nacional) đã tìm thấy những tác động tích cực đến sự tăng trư ởng sinh dư ỡng và phát triển chùm hoa khi 22 ứng dụng trong số này đư ợc kết hợp với Haifa Bonus ở mức 600 g/ha (Bảng 52).
Bảng 50: Tác dụng thuận lợi của việc kết hợp Haifa Bonus trong phun thuốc BVTV*
Sanchó và Guzman, 1996)
Thông lệ của những người trồng chuối ở Mexico là thực hiện 36-44 lần phun trên lá mỗi năm để kiểm soát bệnh Black Sigatoka . Họ sử dụng kết hợp Haifa Bonus với thuốc trừ sâu Bravo 720 và Nghiêng như sau:
Phun trên mặt đất:
2-4% Haifa Bonus trong dung dịch phun 300-400 lít/ha.
Ứng dụng phun khí: Thưởng 7-8% Haifa trong dung dịch phun 20 lít/ha.
- Đề xuất ứng dụng qua lá
Khi sử dụng bằng phương pháp phun trên mặt đất, tỷ lệ nên là 2-4% Haifa Bonus hòa tan trong dung dịch phun 300-400 lít/ha. Tổng tỷ lệ: 6-12 kg/ha.
Khi áp dụng bằng cách phun trên không, tỷ lệ nên là 8-10% Haifa Bonus đư ợc hòa tan trong dung dịch phun 20 lít/ha.
Thời gian và số lượng hồ sơ :
Ở vùng cận nhiệt đới
Ba đến năm lần phun trong khoảng thời gian 3-4 tuần.
Nồng độ khuyến nghị cho ứng dụng trên mặt đất là 2-4% Nồng độ khuyến nghị cho ứng dụng trên không là 8-10%
Ở các vùng nhiệt đới Có thể phun rải quanh năm, tối đa 22 lần phun, có thể trộn chung với bình xịt thuốc trừ sâu.
Khả năng tương thích: Haifa Bonus tương thích cao với hầu hết các loại thuốc trừ sâu được sử dụng trong trồng chuối. Nó cũng tương thích với các chất dinh dưỡng thực vật khác được sử dụng để khắc phục những thiếu sót phổ biến như magiê, kẽm và bo. Bạn nên xác nhận tính tương thích của hỗn hợp dự định của mình bằng cách chuẩn bị mẫu vật liệu phun ở nồng độ khuyến nghị để loại trừ khả năng xảy ra phản ứng chéo bất lợi. Hỗn hợp này nên được phun lên một khu vực nhỏ trước khi xử lý thương mại để đánh giá xem có xảy ra tác dụng phụ hay không.
nhạy cảm:
Nhiệt độ cao và độ ẩm thấp có thể làm tăng tính mẫn cảm của cây chuối với khả năng bị tổn thương do phun thuốc. Thời điểm phun tốt nhất là sáng sớm hoặc chiều tối.
Không nên phun thuốc cho cây trồng trong điều kiện căng thẳng!